Nấm lim xanh gia truyền THANH-THIẾT-BẢO-SINH
Nấm lim xanh tự nhiên LOẠI NGUYÊN CÂY
CÔNG TY TNHH NẤM LIM XANH VIỆT NAM
Địa chỉ: Tổ 5 - Xã Tiên Hiệp - Tiên Phước - Quảng Nam
0904 522 869 024 3797 0138

Ngưu bàng tử

Ngưu Bàng Tử

(Fructus Arctii Lappae)

Tên khác: 

Ác thực, Thử Niêm tử, Đại lực tử, Biên bức thích, Mao nhiên nhiên tử, Hắc phong tử, Mao trùy tử, Niêm sang tử, Thử tiêm tử, Loan ba câu tử, Vạn bả câu, Đại ngưu tử, Ngưu tử.
Tên khoa học: Fructus Arctii Lappae, thuộc họ Cúc (Compositiae).

Mô tả cây thuốc:

Ngưu bàng tử là quả của cây Ngưu bàng, một cây sống hằng năm hay 2 năm, cao chừng từ 1-1,5m. Phía trên phân nhiều cành. Lá mọc thành hoa thị ở gốc và mọc so le ở trên thân. Lá to rộng. Hình tim, đường kính tới 40-50cm, cuống lá dài, mặt dưới lá mang nhiều lông trắng. Hoa tự hình đầu, mọc ở đầu cành, đường kính 2-4cm, cánh hoa màu hơi tím. Quả bé màu xám nâu hơi cong. Mùa hoa tháng 6-7, mùa quả tháng 7-8.
Bộ phận dùng: Quả chín phơi khô.

Tính vị: Vị cay, đắng, tính hàn.

Quy kinh: Vào kinh Phế, Vị.

Phân bố, thu hái và chế biến:

Cây ngưu bàng mới di thực từ Trung Quốc sang nước ta mấy năm nay (1959). Ngay tại Trung Quốc, nguồn cung cấp chủ yếu cũng do trồng mà có ít thu nhập ở những cây mọc hoang. Trong dợt điều tra dược liệu Lào Cai ( Hoàng Liên Sơn) 7-1967, đoàn điều tra đã thấy ở vùng cao nguyên Bát Xát có cây ngưu bàng mọc hoang. Vào các tháng 8-9, khi quả chín thì hái về, đập lấy quả, phơi khô là được. Khi háo cần đeo găng cho khỏi bị gai ở quả đâm vào tay. Nếu dùng dễ thì hái vào mùa xuânnăm thứ hai, trước khi ra hoa, nếu không rễ sẽ bị xơ nhiều và mất hết tác dụng. Hái quả vào thang 8-9 thì cần gieo ngay, hạt mọc nới tốt, sau khi gieo 18 tháng, tức là mùa xuân năm sau, đào rễ về, rửa sạch, thái thành từng miếng dài 2cm, phơi hay sáy cho thật khô, mới khỏi mốc hỏng.

Bào chế Dược liệu:

– Ngưu bàng tử: Nhặt bỏ tạp chất, sàng đi vụn đất.

– Ngưu bàng tử sao: Lấy Ngưu bàng tử sạch, bỏ vào trong nối, dùng lửa nhỏ sao đến hơi phồng, mặt ngòai sắc hơi vàng và hơi có mùi thơm, lấy ra để nguội.

– Lôi công bào chích luận: Phàm sử dụng Ác thực, chọn nhặt thứ sạch, đừng đề có tạp chất, sau đó dùng rượu trộn hấp, đợi trên có sương trắng mỏng lại hiện ra, dùng vải lau, sau đó sấy khô, đừng giã như bột dùng.

Thành phần hóa học:

Trong quả ngưu bàng người ta chiết xuất được 15-20% chất béo và một chất gọi là glucozit gọi là acttin C27H34O11. H2O. Ngoài ra còn lappin (ancaloit).

Khi thủy phân chất acttin (arotiin) bằng axit nhẹ, ta sẽ được chất actigenin C21H24O6 và glucoza. Trong chất béo thành phần chủ yếu gồm các glierit của các axit panmitic, stearic và oleic. Trong rễ ngưu bàng có tới 57% inulin ( có khi tới 70% ), 5-6% glucoza, một ít chất béo (0,4%), chất nhầy, chất đắng, nhựa và muối kali (nitrat và cacbonat). Trong lá có men oxydara rất mạnh.

Tác dụng của Ngưu bàng tử: Tác dụng trừ phong nhiệt, thanh nhiệt giải độc, thông phổi, làm mọc ban chẩn, tiêu thũng và sát khuẩn.

Công dụng và liều dùng:

+ Tây y dùng lá ngưu bàng hái vào mùa xuân làm thuốc thông tiểu, ra mồ hôi, tảy máu dùng trong các bệnh tê thấp, đau và xưng khớp, một số bệnh ngoài da ( hắc lào, mặt có nhiều Trứng cá, lở loét vv…). Còn dùng cho người bị đường tiện ( đái ra đường ) vì người ta cho răng cao rễ ngưu bàng có tác dụng dạ glucoza trong máu, dùng cuống và thân cây làm thức ăn có tác dụng làm tăng lượng glycongen trong gan. Còn có tác dụng chữa mụn nhọt. Hoạt chất chưa rõ, ngày dùng 3 lần, mỗi lần 0,6g, cao thuốc ổn định. Có thể dùng bột ổn định, uống luôn trong 3 ngày.

+ Đông y thường dùng và chỉ dùng quả ( gọi nhầm là hạt ) để chữa cảm cúm, thông tiểu, chữa sốt, chữa sưng vú, viêm cổ họng, sưng đau viêm phổi và viêm tai. Đối với mun nhọn đang mưng mủ hoạc tràng nhạc thì có tác dụng chóng vỡ và khỏi. Đối với bệnh sởi đậu có tác dụng làm cho chóng khỏi. Ngày dùng 6-10g dưới dạng thuốc sắc dùng riêng hay phối hợp với các vị khác.

+ Theo tài liệu cổ ngưu bàng có vị cay, đắng tính hàn,vào hai kinh phế và vị. Có tác dụng tán phong nhiệt, thanh nhiệt giải độc: tuyên phế thấu chẩn. Dùng chữa ngoại cảm, biểu chứng, ma chẩn ( đậu sỏi ), vị thấu ( không thấu), phong chẩn yết hầu sưng đau, ung thũng. Những người tỳ vị hư hàn, tiêu chảy không dùng được. Nhân dân Châu Âu còn dùng lá non và thân, có khi dùng cả rễ đem giã nhỏ rồi đắp vào nơi rắn độc, sâu, bọ, ong, muỗi và rết cắn. Có lẽ do tác dụng của các men oxydaza có nhiều trong lá và thân.

Đơn thuốc có Ngưu bàng tử:

– Chữa đậu chẩn mọc trong cổ họng: Ngưu bàng tử 8g, cát cánh 6g, cam thảo 3g sắc uống trong ngày.

– Chữa cảm mạo, Thủy thũng, chân tay phù: Ngưu bàng tử 80g sao vàng. Ngày uống 8g bột này chia làm 3 lần uống, dùng nước nóng chiêu thuốc.

– Chữa trẻ con lên đậu mọc không thuận, nóng sốt cổ họng tắc: Ngưu bàng (sao) 5g, kinh giới tuệ 1g, cam thảo 2g, nước 200ml, sắc còn 50ml cho uống. Nếu đậu mọc rồi vẫn uống được. Nếu đại tiện lợi chớ dùng.

– Chữa phù thận cấp tính: Ngưu bàng tử 6g (nửa sao, nửa uống), phù bình ( Sao khô ), 6g, tất cả tán nhỏ ngày uống 3 lần mỗi lần uống 5g dùng nước nong chiêu thuốc ( Kinh nghiệm của Diệp Quyết Tuyền ).

Nguồn:
Dược sĩ tư vấn
Dược sỹ Dung 0904 522 869 Dược sỹ Hoa 024 3797 0138
Exit mobile version