Viêm gan C cấp tính nếu không điều trị kịp thời và hiệu quả sẽ dẫn đến viêm gan C mạn tính. Cần nhận biết sớm các dấu hiệu viêm gan C mạn tính để có biện pháp can thiệp kịp thời trước khi bệnh gây ra những biến chứng nguy hiểm.
Khoảng 50-80% người nhiễm virus viêm gan C cấp tính tiến triển thành viêm gan C mạn tính. Trong các trường hợp ung thư gan, 50-70% trong số đó có liên quan đến virus viêm gan C.
Dấu hiệu viêm gan C mạn tính cần nhận biết
Tỷ lệ bệnh nhân viêm gan do virus C chuyển thành mạn tính chiếm hơn 50%; số bệnh nhân chuyển thành xơ gan sau 10 năm có tới 20% trong trường hợp nguyên nhân gây viêm gan C mạn là do truyền máu, ngay cả với những thể nhẹ và vừa không có triệu chứng và chỉ tăng nhẹ men transaminase. Viêm gan C thường diễn tiến rất chậm và âm thầm. Nồng độ HCV- ARN và thời gian nhiễm bệnh quyết định mức độ tiến triển của bệnh.
Dấu hiệu viêm gan C mạn tính tương như như viêm gan B mạn, mệt mỏi là dấu hiệu thường gặp nhất, vàng da và các biểu hiện ngoài gan ít gặp hơn. Khoảng 1/3 trường hợp người mắc viêm gan C mạn tính có triệu chứng khởi đầu rầm rộ như trong viêm gan cấp, số còn lại diễn biến âm thầm khiến đa số bệnh nhân không phát hiện được bệnh, thường chỉ xuất hiện các triệu chứng chung như mệt mỏi, vùng hạ sườn phải có cảm giác nặng tức, đau cơ, đau khớp hoặc nhức mỏi chung chung.
Ở giai đoạn tiến triển, dấu hiệu viêm gan C mạn tính rõ ràng hơn với các biểu hiện như sốt, vàng da, vàng mắt, nước tiểu vàng hoặc sẫm màu, đau cơ, đau khớp và nhất là đau tức vùng gan và ngứa. Khi đi khám phát hiện gan to vừa, căng chắc ấn đau tức, vàng da vàng mắt, hồng ban và giãn mạch hình sao.
Khi đã biến chứng xơ gan, xuất hiện các biểu hiện xơ gan cổ trướng và suy gan, biểu hiện viêm giảm dần hoặc xuất hiện các triệu chứng ung thư gan như gan lớn, cứng và có nhiều khối u lổn nhổn.
Nguyên tắc điều trị viêm gan C mạn tính
Mục tiêu điều trị viêm gan C mạn tính là diệt trừ virus, ức chế virut sao chép lâu dài và giảm tình trạng viêm gan.
Điều trị viêm gan C mạn bằng Interferon alpha cho hiệu quả khá tốt, sau 1-2 tháng điều trị sự tăng men transaminase sẽ biến mất. Khoảng 50% trường hợp bệnh nhân điều trị bằng interferon làm men transaminase trở lại bình thường cũng như làm giảm hoạt tính mô học. Về hiệu quả lâu dài của liệu pháp điều trị bằng interferon vẫn chưa xác định bởi gần 1 nửa số bệnh nhân có hiện tượng tái phát sau khi ngừng điều trị 3 – 6 tháng.
Hiện nay, liệu pháp peg – interferon kết hợp với ribavirin đã dần thay thế các chế độ điều trị cũ với tỷ lệ đáp ứng virut học kéo dài trên 50% các bệnh nhân. Peg – Interferon còn gọi là pegylate hoá, là sự phối hợp giữa interferon với polyethylen glycol có tác dụng làm làm thanh thải thuốc chậm đi và do đó phơi nhiễm kéo dài với nồng độ thuốc cao hơn, nên chỉ dùng một tuần một lần. Khi điều trị phối hợp với ribavirin cho tỷ lệ đáp ứng lớn hơn 50%. Điều trị bằng peg – interferon trong trường hợp bệnh nhân chống chỉ định dùng ribavirin.
Tác dụng không mong muốn: phần lớn chỉ ở mức độ nhẹ và trung bình, không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe, thường gặp như mệt, đau chỗ tiêm, sốt, ớn lạnh, triệu chứng giống cúm, trầm cảm, ngoài ra có thể gặp các tác dụng phụ khác như thiếu máu, phát ban, giảm bạch cầu trung tính, tăng cảm giác, nhìn mờ, lú lẫn, rong kinh, táo bón,…
Ribavirin: là một chất tương tự guanosine có phổ hoạt tính rộng chống lại các virus RNA và DNA gồm cả các Flaviviridae như virut viêm gan C, thuốc này được phát hiện vào năm 1972. Trong suốt quá trình điều trị, ribavirin có vai trò quan trọng khi phối hợp với peg – interferon. Phác đồ điều trị này không phù hợp với phụ nữ mang thai bởi tác dụng phụ của thuốc có thể gây quái thai, ngoài ra còn gây tan máu.
Các loại thuốc trên chống chỉ định với những bệnh sau: bệnh tự miễn, bệnh nhân xơ gan mất bù, bệnh thiếu máu và thiếu máu cục bộ, rối loạn nhịp tim, suy thận, phụ nữ có thai và đang cho con bú, trẻ em dưới 18 tuổi. Đối với những bệnh nhân thiếu máu 3 dòng, bệnh nhân có các rối loạn tâm thần, các rối loạn co giật cần thận trọng khi dùng thuốc.
Tóm lại, ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, sự phát tán virut C đang có xu hướng gia tăng. Do các nguyên nhân khác nhau, quá trình điều trị và hiệu quả còn gặp nhiều khó khăn. Để phòng ngừa lây nhiễm virut viêm gan C, mọi người cần thực hiện các biện pháp vệ sinh, lọc kỹ nguồn cho máu và chế phẩm từ máu; quan hệ tình dục an toàn, phòng chống các tệ nạn xã hội như nghiện ma tuý, mại dâm; tránh dùng chung những vật dụng như kim tiêm, kim châm cứu, dao cạo, bàn chải đánh răng.
Theo Sức khoẻ & Đời sống