Hiện nay, tại Hà Nội sốt xuất huyết đã xuất hiện, hình thành 8 ổ dịch. Do đó, chúng ta cần cảnh giác với giai đoạn nguy hiểm của sốt xuất huyết để có biện pháp xử trí phù hợp, nhằm hạn chế những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.
Sau giai đoạn sốt với các triệu chứng sốt cao bất ngờ, liên tiếp; chán ăn, nhức đầu, đau cơ, buồn nôn; đau khớp, có chấm xuất huyết ở dưới da, đau hai hố mắt; chảy máu chân răng hoặc chảy máu cam nghiệm pháp dây thắt dương tính…
Người bệnh hầu hết sẽ chuyển sang giai đoạn nguy hiểm sau khoảng 3 đến 7 ngày; đây là một trong những giai đoạn cần phải xem xét để có những biện pháp xử lý phù hợp nhằm hạn chế những hậu quả đáng tiếc của bệnh.
Ở giai đoạn nguy hiểm, bệnh nhân có thể đã giảm sốt hay vẫn còn sốt và bệnh sẽ có một số triệu chứng như: thoát huyết tương vì tăng tính thấm thành mạch, thường sẽ kéo dài từ 24 đến 48 tiếng; tràn dịch màng phổi, phù nề mi mắt, mô kẽ, màng bụng, gan to và có thể đau. Nếu tình trạng thoát huyết tương nhiều dẫn đến hiện tượng sốc với một số biểu hiện lâm sàng như vật vã, lạnh các đầu chi, da lạnh ẩm; huyết áp kẹt, bứt rứt hoặc li bì; mạch nhanh nhỏ, hiệu số huyết áp tối đa và tối thiểu bằng hoặc thấp hơn 20 mmHg, huyết áp tụt hoặc không đo được; đi tiểu ít…
Cùng thời điểm đó bênh nhân sốt xuất huyết sẽ có có dấu hiệu xuất huyết như: chảy máu dưới da được biểu hiện bằng nhiều nốt xuất huyết phân tán rải rác khắp cơ thể hoặc chấm xuất huyết có thể thấy được ở mặt trước hai cẳng chân và mặt trong hai cánh tay, đùi, mạng sườn, bụng hay một số mảng tím bầm; xuất huyết niêm mạc được biểu hiện bởi các triệu chứng chảy máu mũi, đi tiểu ra máu, chảy máu lợi và chân răng, kinh nguyệt kéo dài hoặc xuất hiện kinh sớm hơn kỳ hạn; xuất huyết nội tạng được biểu hiện ở cơ quan não, tiêu hóa, phổi… và được coi là dấu hiệu nặng, nguy hiểm.
Ngoài những dấu hiệu trên, nhiều trường hợp nặng sẽ có tình trạng suy tạng như: viêm cơ tim, viêm gan nặng, viêm não, tình trạng sốt xuất huyết và dấu hiệu nhận biết này có thể xảy ra trên một số người bệnh không có tình trạng thoát huyết tương rõ ràng hoặc không sốc.
Dấu hiệu lâm sàng của sốt xuất huyết Dengue như sốt cao đột ngột và liên tục từ 2 đến 7 ngày, có ít nhất 2 trong những triệu chứng như: chảy máu chân răng, đau đầu, có biểu hiện xuất huyết với nghiệm pháp dây thắt dương tính, chấm xuất huyết dưới da, chảy máu cam; chán ăn, buồn nôn; da bị sung huyết, phát ban; đau cơ, đau khớp, nhức hai hố mắt. Đồng thời kèm theo các dấu hiệu cảnh báo như: vật vã, lừ đừ, li bì; đau bụng vùng gan hoặc ấn đau cùng gan, gan sưng to vượt quá bờ sườn phải hơn 2cm; nôn nhiều, xuất huyết niêm mạc, đi tiểu ít.
Nếu thấy hematocrit tăng cao và tiểu cầu giảm nhanh chóng khi xét nghiêm máu; đồng thời bệnh nhân có những triệu chứng cảnh báo như trên thì cần phải theo dõi sát mạch, số lượng nước tiểu, huyết áp, làm xét nghiệm hematocrit, tiểu cầu và có chỉ định truyền dịch kịp thời.
Chú ý nếu người bệnh là người trên 15 tuổi thì có thể xem xét dừng truyền dịch khi bệnh nhân ăn uống được và không còn nôn. Cần xem xét cho nhập viện để theo dõi, điều trị đối với một số trường hợp sốt xuất huyết trên đối tượng có cơ địa đặc biệt như phụ nữ có thai, trẻ đang trong thời kỳ bú mẹ, người bị bệnh béo phì, người cao tuổi; người có các bệnh lý kèm theo như bệnh thận, tiểu đường, bệnh gan, viêm phổi, hen phế quản, bệnh tim, người sống một mình hoặc nhà ở xa cơ sở y tế…
Đến nay bệnh sốt xuất huyết vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vắc-xin phòng chống bệnh nên giải pháp phòng chống tốt nhất là tránh tiếp xúc với muỗi truyền bệnh, tiêu diệt nơi muỗi có thể đẻ trứng và diệt ấu trùng muỗi bằng các thực hiện tốt khẩu hiệu hành động “không có bọ gậy, không có sốt xuất huyết”. Nếu chẳng may bị bệnh, ngoài việc tìm hiểu xem bệnh sốt xuất huyết có những triệu chứng gì bệnh nhân cũng cần chú ý đến giai đoạn nguy hiểm của sốt xuất huyết với các dấu hiệu cảnh báo để kịp thời nhập viện và có giải pháp xử lý thích hợp.
Theo Dân trí