Ở Việt Nam, tỷ lệ người mắc các bệnh ung thư ngày càng gia tăng, mang lại nhiều gánh nặng cho gia đình và toàn xã hội.
Ngày 4-12, tại Hội thảo phòng chống ung thư Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 17 tổ chức hàng năm, bác sĩ chuyên khoa 2 – Lê Hoàng Minh, Giám đốc Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, ung thư đang là một trong những bệnh lý gia tăng hàng đầu tại Việt Nam và chúng đã trở thành gánh nặng cho gia đình, xã hội và hệ thống y tế Việt Nam.
Qua khảo sát và nghiên cứu trong giai đoạn 2008 – 2012, tại Thành phố Hồ Chí Minh có tới 34.600 trường hợp bệnh nhân mắc ung thư mới được phát hiện. Các bệnh ung thư mắc nhiều nhất ở nam giới là ung thư phổi, ung thư gan, ung thư đại trực tràng, ung thư dạ dày và vòm hầu. Còn đối với nữ giới là ung thư vú, phổi, cổ tử cung, đại-trực tràng và tuyến giáp là những căn bệnh có tỷ lệ mắc nhiều nhất.
Nguy cơ mắc các bệnh ung thư hàng đầu này tăng dần theo từng độ tuổi, nhất là sau 40 tuổi. Vì vậy, các bác sĩ đã khuyên người dân sau 40 tuổi cần thường xuyên khám và tầm soát định kỳ để có thể phát hiện sớm các bệnh ung thư thường gặp.
Tại Việt Nam, số ca mắc bệnh ung thư mới đang gia tăng theo hàng năm. Số liệu năm 2012 ghi nhận có khoảng 125.000 ca ung thư mới và hơn 94.000 ca tử vong do ung thư.
Giáo sư – Bác sỹ Nguyễn Chấn Hùng, Chủ tịch Hội Ung thư Việt Nam cho biết, có khoảng 1/5 số người mắc bệnh ung thư trên thế giới là do các tác nhân gây nhiễm như: vi khuẩn, virus và ký sinh trùng gây ra. Vì vậy, xác định được tác nhân chính gây ra bệnh ung thư sẽ giúp cho việc phòng ngừa bệnh ung thư dễ dàng hơn.
Ví dụ, ung thư dạ dày do vi khuẩn Helicobacter Pylori gây ra, nếu chúng ta tiêu diệt vi khuẩn này bằng kháng sinh trị liệu đúng cách sẽ giúp cho việc ngăn ngừa căn bệnh này hiệu quả. Virus gây viêm gan siêu vi B và viêm gan siêu vi C là những tác nhân hàng đầu gây ra ung thư gan. Bên cạnh đó, việc uống rượu, ăn thức ăn nhiễm độc tố aflatoxin có trong nấm mốc cũng góp phần làm ung thư gan phát triển gấp 60 lần.
Các bác sỹ đã nhận thấy mối liên hệ giữa virus gây viêm gan A, B, C và vắcxin ngừa bệnh trong góp một vai trò quan trọng trong phòng ngừa bệnh. Tương tự đối với ung thư cổ tử cung và virus gây bướu gai (Human Papilloma virus – HPV), thuốc chủng ngừa căn bệnh này sẽ giúp phòng ngừa 70% các trường hợp ung thư cổ tử cung.
Hiện nay, nhân lực trong ngành ung thư còn rất nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Chính vì vậy cần tăng cường các biện pháp truyền thông nhằm giúp người dân tiếp cận thông tin, tham gia các chương trình khám sàng lọc để phát hiện sớm các trường hợp mắc ung thư, từ đó sẽ giúp điều trị kịp thời các bệnh về ung thư, tiến sĩ Lương Ngọc Khuê, Cục trưởng Cục Quản lý khám chữa bệnh thuộc Bộ Y tế chia sẻ.
Mới đây, Bộ Y tế đã trình Thủ tướng Chính phủ có quy hoạch phát triển mạng lưới phòng chống các bệnh ung thư ở Việt Nam và quy hoạch các cơ sở xạ trị để phòng chống ung thư ở Việt Nam.
Kết quả khảo sát hàng năm cho thấy, ngành ung thư trong nước đã ghi nhận nhiều tiến bộ vượt bậc trong việc phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị ung thư. Đã có nhiều khoa điều trị ung thư được thành lập tại các bệnh viện đa khoa của các tỉnh, thành; Bệnh viện K Trung ương cơ sở Tân Triều đưa vào hoạt động toàn diện, khoa Nội Ung bướu vệ tinh của Bệnh viện Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh cũng đưa vào hoạt động…
Bên cạnh đó, các phương tiện chẩn đoán mới đã được đưa vào sử dụng một cách rộng rãi như: máy mô phỏng, máy xạ trị gia tốc, máy chụp cắt lớp phát xạ phát hiện ung thư (PET-CT),… Các phương pháp điều trị ung thư truyền thống như: phẫu thuật và xạ trị đã hướng tới yếu tố thẩm mỹ cho người bệnh; bệnh nhân có thể tiếp cận các thuốc hóa trị và thuốc nhắm trúng đích mới hơn ngay tại Việt Nam.
Theo Tạp chí Cộng sản