Nga Truật
Curcuma zedoaria Berg
Nga truật còn gọi là nghệ tím, tam nai, nghệ đen, nghệ xanh, bồng truật. Thuộc họ gừng (zingiberaceae).
Tên khoa học: Curcuma zedoaria Berg. Rosc.
Mô tả cây
Nga truật – (Rhizoma zedoariae) là thân rễ phơi khô của cây nghệ tím (Curcuma zedoaria).
Nga truật là loại cây thảo, cao từ 1-1,5m. Thân rễ hình nón với nhiều nhánh phụ thon như hình quả trứng, tỏa xung quanh như hình chân vịt. Cây, củ mẫm và chắc. Lá có bẹ to ôm vào chân cây ở phía dưới, có đóm tía đỏ ở gần giữa mặt trên, lá dài 30-60cm, rộng 7-8cm. Cuống lá ngắn hoặc không có. Hoa màu vàng, đài có thùy hình mác tù, dài 15mm, thùy giữa nhọn; Cánh môi hẹp ở phía dưới và rộng ở phía trên, mọc ngang, dài từ 15-20cm, thường mọc trước khi ra lá, cụm hoa tập trung thành bông hình trụ, mọc lên từ thân rễ. Lá bắc phía dưới hình trứng hay hình mác tù màu xanh lục nhạt, đầu lá màu đỏ, không mang hoa. Quả hình trứng, ba cạnh, nhẵn. Hạt thuôn, áo hạt trắng. Mùa có hoa quả vào tháng 3-5.
Cây nga truật mọc hoang ở khắp rừng núi Việt Nam, phát triển rất tốt ở những nơi ven suối nước và những rẫy, nương đất khô, xốp có độ ẩm của vùng trung du, miền núi. Nga truật được trồng đại trà bằng thân rễ.
Bộ phận dùng là rễ (củ) tươi hoặc khô. Thu hái về cắt bỏ rễ con, luộc chín. Có nơi ngâm dấm, cứ 600g nga truật ngâm với 160g dấm và 160g nước. Sau đó cho vào niêu hoặc ấm đất đậy nắp kỹ, đun cho đến khi vừa cạn rồi thái mỏng phơi khô. Thu hái vào đầu tháng 11-12, loại bỏ cây, thân và lá.
Thành phần hóa học
Trong nga truật có từ 1-1,5% tinh dầu; 3,5% chất nhầy, chất nhựa. Trong tinh dầu, thành phần chủ yếu gồm 48% cesquiterpen ancol, 35% Zingibezen, 9,6% Cinecol, các alpha pipen, D – camphen, D – campho, D – bornecol.
Tinh dầu sánh, có mùi đặc biệt, giống như mùi thơm của dầu long não, có màu xanh, vàng nhạt, tỷ trọng là 0,982.
Công dụng và liều dùng
Nga truật có tác dụng rất tốt cho các bệnh lý về đường tiêu hóa như: Viêm niêm mạc và loét hành tá tràng, ăn uống chậm tiêu, thường đau bụng không rõ nguyên nhân, buồn nôn, ho, kinh nguyệt không đều. Còn dùng làm thuốc bổ dưới dạng thuốc sắc, bột hoặc viên, có thể cho thêm mật ong.
Theo đông y: Nga truật có vị đắng, cay, tính ôn, vào can kinh. Tác dụng hành khí, phá huyết, tiêu tích hóa thực.
Trong Tây y, nga truật có trong đơn thuốc bổ Elixirde longue vie (rượu bổ giúp sống lâu) gồm các vị: Lô hội (nha đam) 25g, long đờm thảo 5g, đại hoàng 2,5g, nga truật 2,5g, phan hồng hoa (Crocus Sativus) officinalis 2,5g. Các vị trên thái nhỏ, ngâm trong 2.000ml cồn 600 trong vòng 10 ngày. Lọc lấy rượu để uống, mỗi lần từ 2-5ml. Tuy nhiên nếu uống quá nhiều sẽ có tác dụng nhuận tràng. Cấm chỉ định cho người đau viêm dạ dày hành tá tràng, người đã có uống rượu.
Ðơn thuốc Ðông y chữa trẻ con bú sữa bị nôn, trớ ra ngoài: Nga truật 4g, muối ăn 3 hạt (có thể 2 hạt, càng ít càng tốt) sắc chung với sữa, đợi 5-7 phút để hòa tan rồi cho trẻ sơ sinh uống.
Thực tế cho thấy, các bệnh nhân có chẩn đoán đau, viêm loét dạ dày tá tràng hoặc bệnh lý đại tràng mãn thể táo dùng nga truật (nghệ đen) pha với mật ong uống rất tốt. Ngày uống 5-10g (tương đương một thìa cà phê), chia 2 lần sáng tối sau mỗi bữa ăn… Có bệnh nhân đã dùng bột nga truật – mật ong uống kèm 1-2 viên Tetracyclin 500mg để điều trị viêm loét dạ dày hành tá tràng, sau đó chụp phim X-quang dạ dày tá tràng không thấy có ổ đọng thuốc. Hoặc một số bệnh nhân viêm đại tràng mãn thể táo uống bột nga truật với dầu mè đen đã cải thiện chức năng tiêu hóa rất tốt, đi phân có khuôn bình thường, hết táo bón kéo dài.
Liều lượng dùng nga truật cho các bệnh nói trên mỗi ngày từ 4-6g sắc uống, nhưng thường dùng dưới dạng bột nga truật có thêm ít mật ong hoặc dầu mè đen.